BỆNH VẢY NẾN
1. Đại cương :
- Vảy nến là một bệnh da mãn tính thường gặp do tăng sinh tế bào và viêm. Tổn thương da đặc chưng thường gặp là những mảng màu đỏ, bề mặt tróc vảy, giới hạn rất rõ, với vị trí phân bố thường ở mặt duỗi của chi và đầu
- Theo thống kê WHO có 1-2% dân số thế giới mắc bệnh vảy nến. Mọi lứa tuổi đều có thể bị vảy nến. Tuy nhiên bệnh thường khởi phát ở lửa tuổi 15-30. Không phân biệt giới tính
2. Căn nguyên cơ chế bệnh sinh :
- Nguyên nhân thật sự của vẩy nến vẫn chưa rõ nhưng nhiều nghiên cứu cho thấy vẩy nếncó liên quan đến gen và rối loạn miễn dịch ở cơ thể người bệnh, từ đó dẫn đến các tế bào da tăng sinh rất nhanh và bất thường. Ngoài ra, một số yếu tố môi trường cũng góp phần khởi phát, thúc đẩy cũng như làm nặng thêm bệnh vẩy nến. Các yếu tố đó gồm
- Chấn thương: vẩy nến có thể xuất hiện ở những da bị chấn thương thậm chí cả những vết trầy xước nhẹ.
- Nhiễm trùng: nhiễm trùng đường hô hấp trên do liên cầu trùng như viêm họng, viêm amidan có thể gây khởi phát vẩy nến giọt (một dạng vẩy nến) hoặc làm nặng thêm tình trạng bệnh vẩy nến hiện mắc. Nhiễm HIV cũng làm nặng thêm bệnh vẩy nến.
Thuốc: một số thuốc có thể gây khởi phát hoặc làm nặng thêm bệnh vẩy nến như thuốc điều trị cao huyết áp (ức chế men chuyển, beta-blocker), kháng sốt rét tổng hợp (chloroquin), lithium, một số kháng viêm non-steroid (indomethacine), progesterone và corticosteroid.
Stress: buồn phiền, lo lắng, giận dữ, stress thường dễ làm bùng phát và nặng thêm bệnh vẩy nến.
Thời tiết: thời tiết lạnh và khô dễ gây bùng phát bệnh vẩy nến. Thời tiết nắng, nóng và ẩm thường làm giảm nhẹ bệnh. Tuy nhiên, một số người thường bùng phát bệnh nặng hơn khi tiếp xúc với nắng (vẩy nến nhạy cảm ánh sáng).
Rượu và thuốc lá: làm nặng thêm bệnh vẩy nến.
3. Lâm sàng
- Vẩy nến thường biểu hiện dưới dạng những mảng màu đỏ, tróc vẩy ở bề mặt, giới hạn rất rõ. Vị trí có thể bất kỳ nhưng thường gặp nhất là da đầu, cùi chỏ, đầu gối, vùng xương thiêng. Người mắc bệnh vẩy nến thường không ngứa, tuy nhiên một số có thể ngứa, châm chích, bỏng rát. Những trường hợp nặng, người bệnh có thể xuất hiện nhiều mụn mủ hoặc đỏ da toàn bộ cơ thể. Ngoài tổn thương da, một số người có thể bị tổn thương móng với biểu hiện móng có nhiều vết lõm, hoặc đổi màu vàng nâu, hoặc móng dày hoặc hư toàn bộ móng
4.Thể lâm sàng
- Vẩy nến có rất nhiều dạng nhưng vẩy nến mảng là dạng thường gặp nhất. Các dạng vẩy nến gồm:
- Vẩy nến mảng.
- Vẩy nến giọt.
- Vẩy nến đỏ da.
- Vẩy nến khớp.
- Vẩy nến mủ.
5. Chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt.
- Vẩy nến được xác định chủ yếu bằng thăm khám. Bác sĩ chuyên khoa da khám sang thương da, móng và vị trí tổn thương sẽ xác định chính xác bệnh vẩy nến. Trong trường hợp không rõ ràng, bác sĩ sẽ sinh thiết vùng da tổn thương để có chẩn đoán chính xác. Không có xét nghiệm máu hay nước tiểu có thể giúp chẩn đoán bệnh vẩy nến.
Vẩy nến có lây không?
- Vẩy nến không lây từ người bệnh qua người khác cũng như không lây từ vị trí này sang vị trí khác trong cơ thể người bệnh. Tuy nhiên, vẩy nến ngày nay nhiều nghiên cứu cho thấy có tính di truyền (10% con mắc bệnh nếu bố hoặc mẹ bệnh, 40% con mắc bệnh nếu cả bố mẹ đều bệnh).
Vẩy nến có những biến chứng gì?
- Vẩy nến là một bệnh không ổn định, nếu không được chăm sóc và điều trị đúng người bệnh có thể bị các biến chứng sau:
- Đỏ da toàn thân.
- Vẩy nến mủ.
- Viêm khớp.
- Nhiễm trùng da.
- Nghiện rượu, thuốc lá.
- Tổn thương gan do thuốc, rượu.
- Một số nghiên cứu gần đây cho thấy vẩy nến là yếu tố nguy cơ đối với hội chứng chuyển hóa và bệnh tim mạch (nghĩa là dễ mắc hội chứng chuyển hóa và bệnh tim mạch hơn) nhất là đối với những người vẩy nến nặng